nguyentoan Admin
Tổng số bài gửi : 143 Points : 417 Join date : 20/03/2010 Age : 35 Đến từ : Trường Đại học Cần Thơ
| Tiêu đề: THƯỢNG CỔ THỜI ĐẠI (Bằng thơ lục bát) Thu Apr 01, 2010 11:56 am | |
| Chương I
1. Họ Hồng Bàng
2. Nước Văn Lang
(2879-258 trước Tây Lịch) Người xa bến bãi sông Lam Ta về Đồng Tháp không cam lỗi thề? "Giấy rách còn giữ lấy lề" Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang. Họ Hồng Bàng, giữ giang san Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!
3. Chuyện cổ tích về đời Hồng Bàng: Giặc Ân thua bởi nhiễu nhương Thiên Vương Phù Đổng phi thường lớn mau. Núi cao theo nước nông, sâu Năm nào Sơn, Thủy tranh cầu Mỵ nương. Sử xanh chép lại mà thương: Chử Đồng Tử khổ mới tường Tiên Dung. Lòng trời lượng cả bao dung Tu nhân, tích đức hòa chung tiếng cười.
Chương II
NHÀ THỤC (258-207 trước Tây Lịch)
1. Gốc tích nhà Thục:
Thục Phán lấy đất, chiếm người Văn Lang, Âu Lạc, đồng thời nhập chung. Thục - Tàu chẳng thể cùng vùng Khâm định Việt sử bàn cùng một chương.
2. Nước Âu Lạc:
Phong ba, nắng gió ai lường Xây trang huyền thoại Mị nương ngậm ngùi. Hờn vây, oán trả nào nguôi Duyên tình tráo trở, bùi ngùi thế gian.
3. Nhà Tần đánh Bách Việt: Ai xui Thục chiếm Văn Lang Cho chàng Trọng Thủy lừa nàng Mỵ Châu. Giặc Tần gieo rắc thương đau Thục Phán - Bách Việt, lấy đầu Đồ Thư.
4. Nhà Thục mất nước:
Loa thành nhà Thục thật, hư: “Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà: Se duyên, Thục - Triệu thông gia Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương. Xót nàng duyên gãy mà thương Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời. Triệu Đà được nỏ, nuốt lời An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!
Chương III
XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẤN
Triệu - Thục hỗn chiến máu rơi Bên Tàu, nhà Hán đánh rơi họ Tần.
1. Phong kiến:
Mỗi người thủ lãnh một phần Lập thành một nước, cống thần mỗi năm. Chư hầu có đến tám trăm Chia công, hầu, bá, tử, nam hưởng cùng.
2. Quan chế:
Tam công, nhà Hạ ra khung: Đại khanh, Nguyên sĩ với cùng Cửu khanh. Nhà Ân, hai tướng, năm quan Sáu quan thái, sáu phủ đàn, sáu công. Sáu quan, đặt bởi Chu Công Thiên, Xuân, Địa, Hạ, Thu, Đông, được thành. Thiên quan, cấp đứng đầu ngành Tên là Chủng tể, tuần hành ở trong. Đại tư đồ giữ thương, công Giáo dục, cảnh sát, hội đồng: Địa quan. Đại tư mã, đầu Hạ quan Cầm binh phụng mạng, trị an nước nhà. Tam công một chức đặt ra Quan trên chính sự, dưới là lục quan. Hành chính chẳng được cùng can Tam cô, Thái, Thiếu phó bàn chiến chinh.
3. Pháp chế:
Đời Thái Tổ có năm hình Thêm roi da với đày mình: tội lưu. Nhà Ân, nhà Hạ, nhà Châu Lăng trì, mổ, muối, chặt đầu, xé thây...
4. Binh chế:
Năm người, nhập ngũ binh ngay Quân, Sư, Súy, Lữ mỗi tay một phần. Thiên tử thì có sáu quân Nước nhỏ được một, chư thần được ba. Nhà, Tỉnh từ Nước mà ra Ấp, Khâu, Điện có cổ xa, trăm người.
5. Điền chế:
Mười phần ruộng lấy một mươi Đi theo Phép cống tùy thời biến thiên. Ân, Chu dùng phép Tỉnh điền Công, tư hoa lợi, nộp liền đức vua. Người nông của chẳng dư thừa Giàu nghèo cấp bậc thì chưa rõ ràng. Lý Khôi, Chiến quốc, luật ban: Toàn dân làm ruộng, chẳng màng phép chi. "Thiên mạch" được mở tức thì Hai phép Cống, Tỉnh biệt ly, bất hoàn. 6. Học hiệu:
Vua, quan, nếu có sinh con Vào trường Đại Học đọc mòn lễ, thư. Tiểu học dạy cách làm người Kính, nhường ứng xử, mở lời khéo khôn.
7. Học thuật:
Đời Chu có lắm danh ngôn Khổng, Lão lễ nghĩa tiếng đồn chẳng ngoa. Mặc Định kiêm ái, ôn hòa Hàn Phi, Quỷ Cốc sáng lòa hiếu nhân.
8. Phong tục:
Công, thương, nông, sĩ đã phân Phu tùy, phụ xướng mười phần lễ nghi. Tổ tiên thờ phụng kính tri Đến đời Ngũ bá mất đi tục này. Văn minh Tần đã đổi thay Triệu Đà truyền luật mới này mọi nơi.
Chương IV
NHÀ TRIỆU 趙 (207 - 111 trước Tây lịch)
1. Triệu Vũ Vương:
Tránh cho máu chảy đầu rơi Triệu Vũ Vương mới chịu lời Hán Vương. Nam Việt một cõi nhún nhường Vua con yếu nhược, tính phương bán nhà.
2. Vũ Vương thụ phong nhà Hán:
Vũ Vương lập nghiệp bên ta Bên Tàu, Hán diệt Sở là Lưu Bang. Cao Tổ thấy Vũ đăng quang Bèn sai Lục Giả chiêu hàng, tấn vương. Kiêu căng, Vương mới coi thường Lục Giả phân giải hư tường, mới thông.
3. Vũ Vương xưng Đế:
Khi Cao Tổ khuất ngôi rồng Lữ Hậu quay lại tranh dòng, lấn vua. Cấm quan hệ với bán mua Vũ Vương bất mãn mới xua lính càn. Xưng làm Hoàng Đế lại gan Trường Sa đánh tới mở màn chiến chinh. Quân Hán chẳng thuộc địa hình Không quen thủy thổ muôn tình bệnh đau. Quay đầu rút chạy về mau Thanh thế Vũ Đế ngầu ngầu đỉnh thiên. 4. Vũ Vương thần phục nhà Hán:
Hán Văn Đế gởi thư riêng Lục Giả nhận biển, trao liền Vũ Vương. “Trẫm nay mọi việc đã tường Lấy lại đất nước từ phường Lữ gian. Quần thần thúc ép đăng quang Nay thư gởi đến vua bàn chuyện binh. Vì dân, trẫm mới cầu xin Trường Sa hỗn loạn, dân tình khổ đau. Nhà vua hãy rút binh mau Hai bên chiến loạn thêm sầu thế nhân. Đôi lời trẫm đã tường phân Mộ phần đã sửa ở Chân Định rồi. Hai nơi mấy núi xa xôi Ganh nhau chẳng khác chi loài tiểu nhân”. Lời thư tử tế hiền nhân Tin lời, Vũ Đế xưng thần Hán cao. Giáp Thìn, Triệu Vũ bãi trào Trăm hai mốt tuổi đi vào vạn thu. 5. Triệu Văn Vương:
Văn Vương trí nhược, tâm nhu Lên ngôi, giặc giã biên khu loạn ngầu. Quân nhà Hán cứu binh nhau Mân Việt giết chúa nạp đầu mới yên. Mời chầu, Trang Trợ phụng thiên Vũ Vương chẳng chịu mới liền gởi con. Anh Tề Thái tử tâm non Mười năm lạc nước nên mòn nghĩa quê.
6. Triệu Minh Vương:
Nghe Vũ mất, Anh Tề về Lập hậu, xưng Đế đâu ngờ kẻ gian. Tư thông kiếm lợi hai đàng Cù bà vợ lẽ, ra màn cướp ngôi.
7. Triệu Ai vương:
Minh Vương khi đã mất rồi Thái tử Hưng được lên ngôi trị vì. Hán sai Thái Qúi tùy nghi Cùng bà Thái hậu thị phi mập mờ. Dụ con dâng nước, bán bờ Hai bên chỉ đợi đến giờ nạp ra. May nhờ Tể tướng Lữ Gia Vạch mưu Cù Thái hậu và Ai Vương. Người Nam đánh Hán kiên cường Cho rằng vĩnh cữu, ai tường bại vong!
| |
|