* Phong trào đấu tranh giành độc lập ở Ấn Độ do giai cấp tư sản mà đại diện là Đảng Quốc đại do M. Ganđi lãnh đạo.
* Các mốc lịch sử cơ bản:
- Ngày 19-2-1946, hai vạn thủy binh trên chiến hạm khởi nghĩa hạ cờ Anh, tổ chức biểu tình, tuần hành với các khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Anh”, “Cách mạng muôn năm!”. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của thủy binh, hai mươi vạn công nhân, học sinh, sinh viên và đông đảo nhân dân Bombay đã bãi công, bãi thị, bãi khóa. Cuộc bãi công sau đó trở thành khởi nghĩa vũ trang của nhân dân, kéo dài trong ba ngày liền (từ 21/2 đến 23/2/1946) mới bị dập tắt. Ở nhiều thành phố khác như Cancutta, Carasi, Mađơvát, đông đảo công nhân đã bãi công hưởng ứng cuộc khởi nghĩa ở Bombay. Ở nông thôn, phong trào “Têphaga” đã nổ ra ở nhiều địa phương có nơi nông dân nổi dậy cướp tài sản của các địa chủ.
- Đầu năm 1947, cao trào bãi công của công nhân đã nổ ra ở nhiều thành phố lớn, như cuộc bãi công của hơn 40 vạn công nhân ở thành phố Cancútta (tháng 2/1947). Đế quốc Anh không thể thống trị theo hình thức thực dân cũ được nữa phải thương lượng với hai đảng Quốc đại và Liên đoàn Hồi giáo chia Ấn Độ thành hai quốc gia trên cơ sở tôn giáo: Ấn Độ của những người theo Ấn Độ giáo và Pakixtan của những người theo Hồi giáo. Hai miền Ấn Độ và Pakixtan được hưởng quy chế tự trị và được thành lập Chính phủ dân tộc riêng của mình. Trên cơ sở thỏa thuận theo kế hoạch này (Kế hoạch Maobattơn) ngày 15/8/1947, Ấn Độ tách ra thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakixtan đã nổi dậy đấu tranh vũ trang tách khỏi Pakixtan và thành lập nước Cộng hòa Bănglađet.
- Không thỏa thuận với quy chế tự trị, Đảng Quốc đại đã lãnh đạo nhân dân Ấn Độ đấu tranh đòi thực dân Anh phải trả độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ. Trước sức ép đấu tranh mạnh mẽ của phong trào quần chúng, thực dân Anh buộc phải công nhận hoàn toàn nền độc lập của Ấn Độ. Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập và nước Cộng hòa Ấn Độ chính thức được thành lập.