nguyentoan Admin
Tổng số bài gửi : 143 Points : 417 Join date : 20/03/2010 Age : 35 Đến từ : Trường Đại học Cần Thơ
| Tiêu đề: BẮC THUỘC THỜI ĐẠI (bằng thơ lục bát) Thu Apr 01, 2010 12:03 pm | |
| Chương I BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT
1. Chính trị nhà Tây Hán:
Vũ Đế chiếm Đại Việt xong Đổi Giao Chỉ bộ mà hòng nuốt tươi. Thái thú, Thứ sử trêu ngươi Lạc hầu, Lạc tướng, chia người trực phiên. Thạch Đái đóng phủ Long Yên Là quan thứ sử trước tiên quận này. Vương Mãng cướp Hán vào tay Tích Quang, Đổ Mục thẳng ngay chẳng về. Đến khi Quang Vũ yên bề Quang, Mục, Đặng Nhượng theo lề cống sang.
2. Tích Quang và Nhâm Diên:
Thái thú Giao Chỉ: Tích Quang Khai hóa, dạy nghĩa cho hàng thứ dân. Nhâm Diên, Thái thú Cửu Chân Chăm lo khai khẩn, canh tân ruộng đồng.
Chương II TRƯNG VƯƠNG 徵王 (40-43)
1. Trưng thị khởi binh:
Thời kỳ Bắc thuộc long đong Thù chồng, khởi nghĩa, Châu Phong lập thề. Người Giao Chỉ lại cùng về Ba năm dựng nước theo cờ Nhị Vương. Tô Định bạo ngược khôn lường Giết người Giao Chỉ không tường thị phi. Bắt Thi Sách đem giết đi Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh. Con dòng Lạc tướng Mê Linh Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam. Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì. Xưng vua, lừng lẫy ai bì Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền. 2. Mã Viện sang đánh Giao Chỉ:
Tân Sửu, Quang Vũ lệnh truyền Phục Ba Mã Viện, binh liền thẳng dong. Đoàn Chí cùng với Lưu Long Phó và thuyền tướng tháp tòng xuất chinh. Hai bên giáp chiến tử sinh Hát Môn đẫm máu giấu hình Nữ Vương. Trung lưu nữ kiệt can trường Thua cơ Mã Viện, cùng đường nhảy sông. Sông xanh nước chảy mênh mông Ghi trang quốc sử muôn dòng tiếc thương. Hồn thiêng phảng phất trong sương Hát Giang sông sáng soi gương Hai Bà! Ba năm một cõi sơn hà Nghìn năm Bắc thuộc sao mà sánh qua! Anh thư, lịch sử nước ta Nữ vương chỉ có Hai Bà, chẳng ai! Qúy Mão mồng sáu tháng hai Hương hoa khói tỏa tạc đài ngợi ca!
Chương III BẮC THUỘC LẦN HAI (43-544)
I. NHÀ ĐÔNG HÁN:
1. Chính trị nhà Đông Hán:
Nhà Đông Hán trị dân ta Tham tàn, hiếp đáp quả là Khuyển Ưng. Người Giao Chỉ khổ vô chừng Tìm vàng dưới biển, lên rừng kiếm châu.
2. Lý Tiến và Lý Cầm:
Nhân tài bị bỏ, còn đâu Lý Cầm, Lý Tiến cùng nhau khẩn cầu. Hán Minh Đế ngẫm lời tâu Thăng quan chức hậu, nễ nhau mấy phần. Trương Trọng đi sứ cầu thân Năm phần cứng cỏi, năm phân nhún nhường. Nhìn người chớ có khinh thường Nhân tài trí dũng, ai nương tướng ngoài.
3. Sĩ Nhiếp (187- 226):
Người nước Lỗ, đổ mậu tài Tránh loạn biên tái, nên ngài đến ta. Đời Hiến Đế, năm thứ ba Trong Châu giặc giã, xin ra trấn ngoài. Đình hầu thọ sắc phong rồi Tướng quân An Viễn đến hồi trị gia. Lấy điều phép tắc xây nhà Nhân dân trọng đức tôn là Sĩ Vương.
II. ĐỜI TAM QUỐC (220-265)
1. Nhà Đông Ngô (222-280):
Đông Ngô thế mạnh hùng cường Nhà Đông Hán đã vào đường thế cô. Nước Tàu xé lẻ địa đồ Giao Châu lệ thuộc Đông Ngô Tôn Quyền. Bính Ngọ, Sĩ Nhiếp quy tiên Sĩ Huy xưng Thái thú liền thế cha. Quảng Châu: Hợp Phố trở ra Giao Châu: Hợp Phố ngược mà trở đi. Đái Lương cùng bọn Trần Thì Đem quân đến bắt Sĩ Huy phải hàng. Anh em năm kẻ liên can Bị giết bởi tội chịu hàng họ Tôn. Bấy giờ, Ngô chủ tính khôn Hai châu Giao, Quảng phải dồn một Châu. Lữ Đại - Thứ sử đứng đầu Đem quân lấn chiếm chư hầu Cửu Chân.
2. Triệu Ẩu:
Giao Châu, Giao Chỉ tương phân Thứ sử Lục Dận muôn phần ác tinh. Mậu Thìn, Quốc Đạt khởi binh Quân tôn nữ Triệu Thị Trinh đứng đầu. Anh em bảo bọc cho nhau Ai ngờ gặp phải chị dâu chẳng hiền. Thị Trinh lập tức giết liền Lên rừng mộ lính, múa quyền, cỡi voi. Non nhà lửa bỏng, dầu sôi Anh em Triệu Ẩu song đôi chém Kình. Anh hùng, nữ tướng kiên trinh Lục Dận lạc phách, hồn kinh lắm điều. Theo mây về cõi tiêu diêu Non sông tạc tiếng: "Nhụy Kiều tướng quân"! “Tài trinh đệ nhất phu nhân Bậc chính anh liệt nữ thần” tỉnh Thanh.
3. Nhà Ngô chia đất Giao Châu:
Nhà Ngô chặt cội, đẵng cành Đem đất Nam Việt chia thành hai Châu. Quảng Châu cùng với Giao Châu Quan Tàu Thái thú thay nhau bạo tàn. Dân gian loạn lạc, mới bàn Giết quan Thái thú mà hàng Ngụy quân. Giao Châu mục, có Đào Hoàng Đầu Ngô, hàng Tấn để còn Giao Châu.
III. NHÀ TẤN (265-420)
1. Chính trị nhà Tấn:
Thiên hạ, nhà Tấn đã thâu Thương nhà Ngụy mới phong hầu cháu con. Các thân vương vì sống còn Thi nhau thủ đoạn chẳng tròn đệ huynh. Thiên tai tại thượng vô tình Xưng vương, xưng đế một mình, một sân. Hơn mười sáu nước tranh phân Ngũ Hồ loạn lạc muôn dân cực hình.
2. Nước Lâm Ấp quấy nhiễu Giao Châu:
Bên trong chính sự bất bình Bên ngoài giặc phá, dân tình oán than. Giặc Lâm Ấp muốn thi gan Phạm Hùng cướp cạn, quân càn Nhật Nam. Canh Thân, Tuệ Độ đã làm Giao Châu Thứ sử diệt Chàm trị yên. Phạm Hồ Đạt được mấy niên Bị Chư Nông phản cướp quyền, hỏng xôi! Khi Phạm Dương Mại chiếm ngôi Nam Bắc triều đã phân đôi nước Tàu. Đông Tấn và Tống đánh nhau Vua Lâm Ấp mới gây sầu Giao Châu.
IV. NAM BẮC TRIỀU (420-588)
1. Tình thế nước Tàu:
Canh Thân, Lưu Dụ mưu sâu Cướp ngôi Đông Tấn chia nhau Bắc triều. Giao Châu phụ thuộc Nam triều Ngụy, Tề, Chu đế gây điều ngoại xâm.
2. Việc đánh Lâm Ấp: Nói về họ Phạm ngấm ngầm Ngôi người khác lại rộ rầm cướp đi. Thấy Tàu nội loạn ra chi Sai cống nhà Tống muốn vì Giao Châu. Tống triều nào há chịu đâu Họ Phạm kia mới hái dâu nhử tằm. Hòa Chi, Tông Xác đã căm Mang binh sang đánh, Phạm ngầm chạy mau. Đàn Hòa Chi vội tóm thâu Người vàng một tượng, báu châu chật nhà. Gian tham chẳng đổi thật thà Vàng kia cái lộng cũng là con dao. Hòa Chi rớt chức, mất bào Giao Châu Thứ sử lộn nhào, hỡi ôi! 3. Sự biến loạn ở đất Giao Châu: Kỷ Mùi, nhà Tống mất ngôi Nhà Tề kế nghiệp không thôi cướp giành. Nhà Lương khởi sự máu tanh Tiêu Tư tàn bạo lòng đành dửng dưng. Chương IV NHÀ TIỀN LÝ 前李 (544-602)
1. Lý Nam Đế (544-548):
Giao Châu thóc chín lưng chừng Thân trâu, kiếp ngựa vang lừng trống khua. Ngoài biên, giặc Tống hơn thua Bên trong, Lâm Ấp vào mùa phá ranh. Bên Tàu, lưỡng thổ phân tranh Tề vừa phế Tống, Lương thanh toán Tề. Tham tàn thái thú, người ghê Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian. Vạn Xuân thoát cảnh lầm than "Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà. Bình minh chiếu sáng sơn hà Thanh bình tự chủ như là đến phiên! Nghe qua, Lương Đế đảo điên Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền. Thua đi, thắng lại truân chuyên Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương. 2. Triệu Việt Vương (549-571):
Triệu Việt Vương - Dạ Trạch Vương Trung kiên dạ tướng, cung thương quật cường. Thông gia Phật Tử, lầm đường Nhằm tin rễ phản, nào lường vạ, may!
3. Hậu Lý Nam Đế (571-602): Tranh ngôi, Phật Tử ra tay Hậu Lý Nam Đế thua ngay nước Tùy. Giao Châu hết thịnh thì suy Ba trăm năm lẻ chịu quỳ Bắc phương!
Chương V BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (603 - 939)
I. NHÀ TUỲ (589-617)
Việc đánh Lâm Ấp: Nhà Tùy sai tướng Lưu Phương Sang đánh Lâm Ấp xem dường ý gian. Vì đồn Lâm Ấp lắm vàng Phạm Chí chạy, Phương giữa đàng bệnh... thăng! Giết người, cướp của nên chăng Mạng đi thay của họa rằng đã vương.
II. NHÀ ĐƯỜNG (618-907)
1. Chính trị nhà Đường:
Mậu Dần, Tùy mất bởi Đường Tân Tỵ, Cao Tổ phô trương thế ngoài. Cắt Đại tổng quản trông coi Cùng việc cai trị coi mòi ở lâu. Khâu Hòa quản đất Giao Châu Ngang tàn, bạo ngược như nhau, một phường! 2. An Nam đô hộ phủ: Nhà Tùy tiếp đến nhà Đường Đời nào cũng vẫn coi thường Giao Châu. Dân ta lệ thuộc vào Tàu Mười hai mảnh đất chư hầu ngó nhau!
3. MAI HẮC ĐẾ (722) Nhằm trừ giặc cướp nương dâu Họ Mai một cõi Hoan Châu đứng đầu. Nhỏ người, sức khỏe tựa trâu Thúc Loan mặt mũi, mày râu đen sì! Xưng vua Hắc Đế gây uy Đánh nhau nổi tiếng gan lỳ tướng quân! Anh hùng, thất thế sa chân Họ Mai kia chốn phong trần, lánh xa.
4. Giặc bể: Tân Tỵ có quân Đồ Bà Ngoài bể vào phá với là Côn Lôn. Ra vào cướp giật cô thôn Quan Kinh lược đánh, hoảng hồn chạy nhanh. Trương Bá Nghi xây La thành Phòng ngừa cướp đánh và canh cướp ngầm.
5. Bố Cái Đại Vương (791): Họ Quang kia thật là thâm Làm quan bảo hộ chuyên nhằm vét vơ! Nhân dân ta, lúc bấy giờ Sưu cao, nặng thuế hai bờ chẳng cam. Phùng Hưng vốn ở làng Cam Vùng lên giết chết quan tham Chính Bình. “Đại Vương Bố Cái" thâm tình Thương thay yểu mạng, vô hình thở than.
6. Việc đánh nước Hoàn Lương Phùng An nhút nhát cầu an Cha giành độc lập, con hàng giặc Xương! Nhà Đường đánh nước Hoàn Lương Giết người Mường, Mán, ăn lường thảm thương!
7. Nam Chiếu cướp phá Giao Châu: Tư thù, Mán tộc và Mường Xui người Nam chiếu cướp đường Giao Châu. Tranh nhau đến loạn xà ngầu Mười năm đổ máu đi chầu Diêm Vương!
8. 9. Cao Biền bình giặc Nam Chiếu. Công việc của Cao Biền: Cao Biền tướng giỏi nhà Đường Tinh thông sách học, làu thường tướng môn. Trừ căn, tính quẻ Càn Khôn... Bình quân Nam Chiếu, huyệt môn yểm trừ.
10. Sự trị loạn của nước Tàu: Vua mà chính trực công tư Nhân gian chẳng được khúc từ “Sâm thương”! Hưng, suy nghĩ cũng là thường Ta - Tàu nội loạn, sa trường tử thương.
III. ĐỜI NGŨ QÚY (907-959)
1. Tình thế nước Tàu:
Bên Tàu, Ngũ Quý phân vương: Hậu Đường, Hán, Tấn, hậu Lương, ngũ vùng. Hậu Chu: năm nước xưng hùng Để Khúc Thừa Dụ được cùng tấn quan.
2. Họ Khúc dấy nghiệp:
Khúc Thừa Dụ (906-907) Giao Châu, họ Khúc xây làng Người giàu tốt bụng, không màng dã tâm.
3. Khúc Hạo (907-917):
Làm quan chỉ độ tròn năm Trao quyền Khúc Hạo lo chăm nước nhà.
4. Khúc Thừa Mỹ (917-923):
Khúc Thừa Mỹ, nối nghiệp cha Mất lòng phải vạ, họa nhà: Tù binh! Khúc cha đại nghĩa thâm tình Khúc con chính nghĩa thường tình bỏ đi!
5. Dương Diên Nghệ và Kiều Công Tiễn (931-938)
Lý Khắc Chính ác ai bì Nên Dương Diên Nghệ mới vì Khúc gia. Đánh cho Lý Tiến chạy xa Dạy cho Khắc Chính biết ta, biết mình! Ai ngờ nội phản, tham sinh Kiều Công Tiễn lại vong tình, giết đi! Gian thần, lịch sử còn ghi: Trong lo thí chúa, ngoài thì loạn tâm. Ngô Quyền khởi nghiệp Đường Lâm Căm phường phản chúa, kiên tâm báo thù. Kiều Công tiếng xấu thiên thu Tìm đàng cứu viện quân thù: Hán Vương. Hoằng Tháo: Thái tử Bắc phương Xâm lăng chẳng thấy con đường hiểm sâu. Ngô Quyền sai vót nhọn đầu Đằng Giang đóng cọc chìm sâu xuống dòng. Gian thần phải tội bên trong Bạch Đằng Giang sóng đầy chông giết thù. Ngô Quyền đức trí cương - nhu Quăng đi cái ách nghìn thu thuộc Tàu. Danh thơm, tiếng mãi về sau Non sông gấm vóc nhắc nhau bảo toàn.
Chương VI KẾT QỦA THỜI BẮC THUỘC
1. Người nước Nam nhiễm văn minh của Tàu:
Theo dòng lịch sử tính toan Ngàn năm Bắc thuộc gì còn nước ta! Hay, dở từ ấy mà ra Luân lý, phong tục ruột rà với nhau.
2. Nho Giáo:
Theo gương "trung hiếu" làm đầu "Để" "Thử" là gốc, làm câu sửa mình. Nho gia, lý tưởng anh minh Luân thường đạo lý thâm tình sử xanh. Làm người trọng nghĩa, khinh danh Ai ai cũng thể cây xanh, hiệp hòa. Tăng, Sâm, Khổng Tử đề ra Đi qua Khổng Cấp, Mạnh Nha, đạo thành. Nho gia vất vả trường sanh Thủy Hoàng đốt sách, máu tanh học trò! Đời Cao Tổ, đạo thịnh to Nhà Hán bớt khó nên cho mở trường. Đạo nào mà có chủ trương: Lập trường "Nhân-Nghĩa": Đạo đường Việt Nam.
3. Đạo Giáo:
''Vô tri, điềm tỉnh'', trừ tham Không dùng "trí lực" mà cam khổ mình. Đạo giáo triết học cao minh. Tu tâm, trị nước mô hình "trường sinh". Lý Đan nước Sở phát sinh Làm dây Tầm gởi qua mình nhà Chu. Quên chuyện tình, lo ''chuyên tu'' Cho mình "bất tử" mà đu với đời. Trương Đạo Lăng, quả gặp thời Tần, Đường, Hán mới tin lời viễn vong. Đồng hành tiên thuật, hạnh thông Hoàng Cân Trương Giác, Cát Hồng nối nhau. Tử - Sinh vốn đã từ lâu ''Trường sinh" ai đã được đâu, phép màu?
4. Phật Giáo:
Đời người đầy ải khổ đau "Sinh, lão, bệnh, tử'', nỗi sầu biến thiên. Luân hồi kiếp bởi nhân duyên Làm sao thoát được ưu phiền thế gian? Đức Thích Ca đã không màng Quên thân Thái tử, tìm đàng Phật ngay. "Niết bàn" khi đã rũ tay Bất sinh, bất diệt thành thầy Phật gia. Bà-La-Môn, gốc Thích Ca Từ Ấn Độ đã đi qua nước Tàu. Rồi vì "Tông Chỉ" khác nhau. Nên Phật tích đổi ra màu Phật kinh. Nhà Đông Hán có Huệ Sinh Thái Am với Tống Vân tinh Phật đàn. Vua Đường hạ chiếu Huyền Trang Đi sang Thiên Trúc, Kinh mang để truyền. "Tây Du Ký", động địa thiên Ngô Thừa Ân truyện giải phiền chúng sinh. Biết bao nhiêu nghĩa với tình Biết bao câu chữ ẩn hình tử sinh. Tiền Lê, nhà Lý, nhà Đinh Thịnh hành đạo Phật; Nho vinh Lý - Trần. Quốc đạo thống nhất bất phân Đạo nào cũng đã góp phần đấu tranh!
5. Sự tiến hóa của người nước Nam:
Nho, Phật, Lão phát triển nhanh Dân ta tín ngưỡng theo thành thói quen. Cần dùng, cách chống ươn hèn Tranh đua chẳng phải bon chen cạn cùng. Ta – Tàu tục lệ như chung Văn minh nước Việt không sùng bái Tây. Gì của Tàu, cũng cho hay Tiến hóa chẳng mấy, loay hoay kém người.
| |
|