1. Cơ sở lý luận:
Vận dụng học thuyết Marx-Lenin về hình thái kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh đã phác họa chu trình vận động của lịch sử xã hội loài người như sau: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) – nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô, có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam,...“ [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.247]. Như vậy, các quốc gia bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ những tiền đề xuất phát khác nhau sẽ nảy sinh các hình thức và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội khác nhau.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Ở Việt Nam:
+ Khi phân tích xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh thấy xã hội Việt Nam có 2 mâu thuẫn gay gắt (dân tộc Việt Nam >< thực dân Pháp, nông dân >< phong kiến). Từ đó, Người phát hiện ra 3 nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam: nhu cầu độc lập, dân chủ, hạnh phúc (đây là những nhu cầu chính đáng của 1 dân tộc).
+ Sự thất bại của những phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy rằng: ý thức hệ phong kiến đã trở nên lỗi thời về mặt lịch sử và ý thức hệ tư sản cũng thể hiện sự bất lực của giai cấp tư sản.
Trước thực tế khủng hoảng đường lối cứu nước, đặt ra cho các nhà yêu nước và trí thức Việt Nam 1 nhiệm vụ lịch sử: tìm ra xu hướng cách mạng mới để giải phóng dân tộc.
- Trên thế giới:
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã chứng minh rằng chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã thành hiện thực. Đồng thời, cách mạng tháng Mười Nga đặt ra cho các dân tộc độc lập đứng trước sự lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc mình: quay lại với chế độ phong kiến, hay phát triển theo tư bản, hay xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Dựa trên thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam.